Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh Lớp 3 trong môn Luyện từ và câu
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh Lớp 3 trong môn Luyện từ và câu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_nhan_biet_bien_phap_so_san.docx
Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh Lớp 3 trong môn Luyện từ và câu
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KỸNĂNG NHẬN BIẾT BIỆN PHÁP SO SÁNH CHO HỌC SINH LỚP 3 TRONG MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU PHẦN I. ĐẶT VẾ ĐỀ Một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là hìnhthành và phát triển nhân cách cho học sinh một cách toàn diện. Do đó Tiếng Việt là môn học có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần tích cực vào rèn kĩ năng giao tiếp, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho người học sinh. Môn TiếngViệt giúp cho học sinh 4 kĩ năng “nghe, nói, đọc, viết”. Các bộ phận cấu thành của môn Tiếng Việt trong trường tiểu học bao gồm: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn Vấn đề đặt ra làngười giáo viên dạy Luyện từ và câu như thế nào để nâng cao chất lượng, đáp ứng được khả năng tiếp thu bài của học sinh? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Luyệntừ và câu ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn. Trong thực tế những năm đã từng đứng trên bục giảng, tôi nhận thấy khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế, phần lớn học sinh chỉ mới biết một cách cụ thể nghĩa của từ nên khi tiếp thu về nghệ thuật so sánh tu từ rất khó khăn. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên cần hướng dẫn một cách tỉ mỉ, thực tế. Điều đó khiến tôi luôn trăn trở, suy nghĩ: Làm thế nào? Bằng cách nào để khơi gợi ở học sinh hứng thú, say mê học tập môn Luyện từ và câu. Vì thế đây là vấn đề tôi băn khoăn, trăn trở, khiến tôi tiến hành nghiên cứu tìm ra biện pháp “Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu” PHẦN II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1.Thực trạng chất lượng dạy học a. Ưu điểm Tiếng Việt vừa là môn học chính vừa là công cụ giúp học sinh tiếp thu các môn học khác, là bước khởi động, là cánh cửa để dẫn dắt người học khai thác những giá trị của câu, từ. Đồng thời còn giúp học sinh có thể hình thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp trong môi trường hoạt động của các em. Đó là kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Ngôn ngữ gắn liền với tư duy nên thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học sinh biết phân biệt, biết cách so sánh hình ảnh trong thơ văn.Giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có được các phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp so sánh ở lớp 3.Góp phần giúp học sinh lóp 3 học tốt hơn nữa phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt. Học sinh có hứng thú học tập phân môn Luyện từ và câu, từ đó giúpcác em học tốt các phân môn khác như phân môn Tập làm văn, Kể chuyện và biết áp dụng vào thực tế cuộc sống.
- -Đa số các em có ý thức trong việc học, có chuẩn bị bài khá chu đáo trước khi đến lớp, một số em đã biết dùng từ đặt câu, diễn đạt tương đối lưu loát. - Đời sống kinh tế của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao nên việc đầu tư cho con cái học tập cũng có những thuận lợi nhất định - Một số em có năng khiếu về môn Tiếng Việt cho nên khi học các phân môn Luyện từ và câu, Chính tả, Tập đọc các em dễ dàng biết tìm từ so sánh, các sự vật được so sánh, nhân hóa; biết dùng từ đặt câu, viết đúng chính tả, diễn đạt tương đối tốt. -Nhà trường có đội ngũ cán bộ quản lí có năng lực, tâm huyết, năng động, nhiệt tình; đội ngũ giáo viên yêu nghề mến trẻ, hết lòng vì học sinh thân yêu. Trường nhiều năm liền đạt danh hiệu tập thể lao động xuất sắc. - Phần đông các em có nhà gần trường, tỉ lệ đi học chuyên cần cao. - Điều kiện cơ sở vật chất của trường lớp tương đối khang trang, lớp có đủ điều kiện cho các em học tập. b. Tồn tại - Phân môn Luyện từ và câu lại được coi là phân môn vừa khô vừa khó cho cả người dạy và người học cảm thấy khó khăn khi truyền đạt cũng như khi lĩnh hội kiến thức. - Các em cóthể nhận diện (tìm) những sự vật được so sánh, hình ảnh so sánh, các vế so sánh, từ chỉ so sánh, đặc điểm so sánh được nói đến trong câu (đoạn văn), thơ hoặc văn bản nhưng mới chỉ cảm nhận một cách chung chung - Các em sẽ gặp khó khăn khi vận dụng đặt câu (nói, viết) có dùng phép so sánh, tìm từ, đặt câu, phép nhânhóa vì vốn từ còn ít chưa có thói quen và chưa biết cách quan sát, nhận xét sự vật,hiện tượng để tìm ra những đặc điểm giống nhau. Bởi vậy câu văn của các em chỉ mang nội dung thông báo chứ chưa có sức gợi cảm, gợi tả. - Do đặc thù của lớp đối tượng nhận thức của các em không đồng đều, thêm vào đó các em chưa thực sự quan tâm, yêu thích môn Luyện từ và câu hoặc chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn học. - Các từ cần giải nghĩa đa số là từ Hán Việt nên học sinh khó hiểu, khó giải nghĩa. Các từ, các thành ngữ, tục ngữ cần giải nghĩa, cần tìm có nghĩa gần giống nhau, khiến cho học sinh khó phân biệt nghĩa của chúng. -Ranh giới giữa các cụm từ hoặc từ trong tiếng Việt không mang tính xác định, không dễ nhận biết nên các em còn thiếu tự tin khi học phân môn này.
- -Bên cạnh đó học sinh còn chưa xác định rõ được động cơ học tập, lười học, các em ở lứa tuối này chưa có được vốn từ ngữ dồi dào, dùng từ thiếu chính xác Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm cho các em mất tự tin, trở nên rụt rè,nhút nhát - Một bộ phận học sinh lười học, đọc cho nên làm bài tập còn nhiều hạn chế về câu, từ, nghĩa của từ ; - Ít chú trọng đến môn học; - Ngại học Luyện từ và câu, làm bài tập thực hành. - Khả năng nhớ, hiểu và vận dụng kiến thức trong quá trình học tập của các em còn yếu. - Hiện nay đa số các em lười nhác học Luyện từ và câu, nhiều em chưa đọc kĩ đề bài, chuẩn bị bài sơ sài. Thậm chí nhiều em còn chưa biết chọn từ ngữ xếp vào bảng phân loại theo nghĩa của chúng, không nhớ các từ dùng để so sánh hai sự vật. Bài làm còn sai chính tả, ngữ pháp, chưa biết chọn từ thích họp để điền vào chỗ chấm Từ việc học yếu lại không được thầy cô quan tâm, uốn nắn kịp thời, không có cơhội được thể hiện trước lớp dẫn đến một số em buồn chán trong việc học dẫn đến không hiểu, nghèo vốn từ. Học sinh chưa có hứng thú học tập phân môn này. Đa số các em đều cho rằng Luyện từ và câu là môn học khó. Một số kiến thức còn trừu tượng, khó hiểu, phần lý thuyết cũng không có, học sinh chỉ được hiểu qua những bài tập làm mẫu của giáo viên rồi cảm nhận và làm các bài tập còn lại vì thế học sinh thường ngại học phân môn này. Chất lượng phân môn Luyện từ và câu đầu năm rất thấp, học sinh chưa biết làm những bài tập có ý tưởng phong phú, sáng tạo mà chỉ biết trả lời theo câu hỏi gợi ý.Đấy là vấn đề nan giải đòi hỏi giáo viên phải có biện pháp thích hợp để từng bước giảng dạy đạt kết quả - Đứng trước thực tế đó tôi nhận thấy nhiệmvụ mỗi giáo viên chúng ta phải thường xuyên nghiên cứu, tìm hiểu tâm tư nguyệnvọng của từng đối tượng học sinh để vận dụng phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm mục đích cuối cùng là các em ngày càng yêu thích môn Luyện từ và câu, áp dụng làm bài tập tốt hơn, là cơ sở để học tốt các môn học khác. 2.Biện pháp để nâng cao chất lượngdạy học - Qua nhiều năm học tôi tìm hiểu thấy được một số tồn tại trên, nay tôi đã tiến hành thực hiện biện pháp“Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu” giúp các em làm tốt hơn các dạng so sánh trong phân môn luyện từ và câu như sau: Biện pháp 1: Kết hợp hài hòa các phương pháp giảng dạy, sử dụng tốt đồ dùng , ứng dụng công nghệ thông tin và dạy học trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3.
- Biện pháp 2: Thống kê phân tích các biện pháp so sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3. Biện pháp 3: Mở rộng, nâng cao các kiểu của phép so sánh sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3. 3. Thực nghiệm và dạy thực hành áp dụng thực tế Biện pháp 1: Kết hợp hài hòa các phương pháp giảng dạy, sử dụng tốt đồ dung dạy học trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3. Có nhiều phương pháp để dạy Luyện từ và câu lớp 3. Tuy nhiên, khi dạy nội dung so sánh ta thường hay sử dụng hai phương pháp cơ bản đó là trực quan và giảng giải. Trong các bài tập của sách Tiếng Việt 3 các câu văn, thơ trích dẫn đều thuộc loại so sánh tu từ (so sánh hình ảnh) nhằm diễn tả một cách có hình ảnh đặc điểm của sự vật sự việc. Trong khi đó tư duy của trẻ tiểu học là tư duy trực quan cụ thể. Có em chưa hề nhìn thấy cánh diều, có em sẽ khó khăn khi liên tưởng (dấu hỏi) với “Vành tai nhỏ” hoặc “Những chùm dừa” với hình ảnh "đàn lợn con” nằm quây quanh bụng mẹ. Bởi vậy trực quan tranh hoặc hình ảnh động về cánh diều, vành tai hay cây dừa sai quả sẽ góp phần đắc lực giúp các em dễ dàng nhận thấy các hình ảnh so sánh đó thật chính xác, sinh động và gợi tả Tuy nhiên có những hình ảnh so sánh không thể dùng trực quan để giảng giải vì nó thuộc kiểu so sánh khác loại (so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng) Ví dụ: “Công cha nghĩa mẹ như núi cao biến rộng”. Hay : “Đêm nay con ngủ giấc tròn Mẹ là ngọn gió của con suốt đời”. Khi đó giáo viên phải dùng phương pháp giảng giải, mô tả để học sinh phát huy tư duy trừu tượng của mình để hình dung tưởng tượng ra đặc điểm giống nhau giữa cái cụ thế và trừu tượng ấy. (Ý nói công ơn sinh thành nuôi dưỡng dạy bảo của cha mẹ giành cho con như biển nước, biển không bao giờ khô cạn. Hoặc: Hình bóng mẹ,tình cảm của mẹ luôn là nguồn động viên an ủi con, là ngọn gió lành thối mát tâmhồn con đến suốt cuộc đời) Tuy nhiên để giờ học sinh động giáo viên cần linh hoạt phối hợp cả hai phương pháp trên và các phương pháp khác, đa dạng hóa các hoạt động học tập.Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy Luyện từ và câu:Trong mỗi giờ học giáo viên cần đa dạng hóa các hoạt động học tập nhằm kích thích được tính chủ động sáng tạo và gây hứng thú học tập cho các em. Giáo viên có thể phối hợp các hoạt động học tập như học cá nhân, học theo cặp, học theo nhóm để tránh sự nhàm chán của học sinh. Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập một cách chủ động tích cực. Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận nhóm, đàm thoại với nhau hoặc hoạt động cá nhân
- về một vấn đề. Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác. Không khí học thoải mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến trước đông người một cách lưuloát, rành mạch. Với mỗi bài tập giáo viên có thể chép sẵn ngữ liệu hoặc đáp án ra bảng phụ trước khi bước vào giờ học và sử dụng bảng phụ hợp lý với tiến trình giờ học. Sau khi đã yêu cầu học sinh làm bài tập cá nhân hoặc theo nhóm giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng chữa trực tiếp, có thể dùng giấy khổ to để ghi lại nội dung bài tập, nếu bảng phụ không đủ. Tương tự như bảng phụ và giấy khổ to, các bảng giấy hoặc thẻ từ ghi sẵn ngữ liệu cũng là những đồ dùngdạy học hiệu quả nên được sử dụng linh hoạt trong tiết Luyện từ và câu Đặc biệt ngày nay công nghệ thông tin đang phát triển chúng ta có thể áp dụng trong dạy kiểu bài so sánh bằng cách đưa ra các hình ảnh động hoặc tranh ảnh để học sinh cảm nhậnrõ sự giống và khác nhau giữa các sự vật. Từ đó các em sẽ dễ dàng so sánh sự vật mộtcách chính xác, chắc chắn giờ học sẽ sinh động và hiệu quả. Tuy nhiên giáo viên cầnphải biết sử dụng khéo léo hợp lý đồ dùng với từng bài tập, không quá lạm dụng hìn ảnh. Ngoài ra trong quá trình dạy học giáo viên có thể thiết kế và sử dụng phiếu bài tập nhằm thay đổi hình thức tổ chức dạy học, tạo hứng thú cho các em trong giờ học.Chẳng hạn có thể thiết kế phiếu bài tập cho tiết Luyện từ và câu. Trong các tiết Luyện từ và câu ta có thể sử dụng nhiều đồ dùng dạy học khác nhau để giờ học sinh động, hấp dẫn, không tẻ nhạt. Giáo viên phải biết phối hợp sử dụng các đồ dùng dạy học một cách linh hoạt. Có như vậy hiệu quả tiết dạy mới được như mong muốn. Giáo viên cần nắm vững và tích cực vận dụng đổi mới phương pháp dạy học khi dạy Luyện từ và câu; Để học sinh tự thực hành các bài tập, làm quen khám phá kiến thức. Cuối bài giáo viên có thể tóm tắt (chốt kiến thức) thật ngắn gọn để học sinh nắm chắc bài. Ví dụ: Bài 1 trang 24. Sau khi học sinh luyện tập tìm được các hình ảnh so sánh trong những khổ thơ sau: “Mắt hiền sáng tựa vì sao Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời” (Thanh Hải) “Mùa đông Trời là cái tủ ướp lạnh” (Lò Ngân Sùn) Giáo viên cho các em bước đầu cảm nhận được trong mỗi hình ảnh so sánh các sự vật đều có những nét tương đồng (đặc điểm giống nhau) chẳng hạn: “Em yêu nhà em Hàng xoan trước ngõ Hoa xao xuyến nở
- Như mây từng chùm” (Tô Hà) (Đưa hình ảnh động hoặc tranh ảnh Hoa xoan - mây) Trên thực tế có những học sinh chưa từng được nhìn thấy hoa xoan. Do vậy Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu hình ảnh hoa xoan - mây sẽ giúp học sinh thấy được đặc điểm giống nhau giữa hai sự vật và qua đó cảm nhận được cái hay, cái đẹp. Hoa xoan nhỏ li ti, màu tím ngắt, nở thành chùm. Khi hoa xoan nở rộ gợi cho ta cảm giác chúng như những chùm mây tím xốp đang bồng bềnh trôi. Ở bài tập 2 trang 24, sau khi các em tìm được các từ chỉ sự vật so sánh trong những câu trên: tựa, là, như (có thể thay bằng những từ khác : tựa trên thường có mấy sự vật được so sánh với nhau; Các sự vật được so sánh có những đặc điểm như thế nào với nhau ? (ngang bằng, giống nhau) Để thực hiện sự so sánh ngang bằng (giống nhau) ta thường dùng những từ chỉ sự so sánh nào ? (là, tựa, như, tựa như ) Giáo viên cần nắm vững mức độ nội dung của cả chương trình và từng bài để dạy phù hợp với từng loại bài và từng đối tượng học sinh. Như vậy trong Luyện từ và câu lớp 3 so sánh bước đầu được đưa vào thông qua sách giáo khoa, qua các ví dụ và bài tập thực hành giúp cho học sinh cảm nhận, gâyhứng thú và từ đó tìm ra được kiến thức mới để áp dụng trong nói và viết hàng ngày.Các kiến thức trong phân môn Luyện từ và câu nói chung trong dạy học kiểu bài so sánh nói riêng được cung cấp qua hệ thống bài tập nên áp dụng nguyên tắc trực quan trong quá trình dạy học là hết sức cần thiết để giúp các em học tập tốt dạng bài so sánh trong phân môn Luyện từ và câu. Biện pháp 2: Thống kê phân tích các biện pháp so sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3. Nội dung dạy học về so sánh ở các tuần 1, 3, 5, 7, 9, 10,12, 15, 18 của học kì I, nhưng mỗi bài chỉ dạy một nội dung nhỏ. Ví dụ: Tuần 1- Học sinh bước đầu làm quen với biện pháp tu từ so sánh (xác định những từ chỉ sự vật so sánh trong câu thơ để nhận diện biện pháp so sánh). Tuần 3- Học sinh xác định được các hình ảnh so sánh trong câu thơ, văn. Nhận biết từ chỉ sự so sánh (ngang bằng) trong những câu đó. Tuần 5 - Học sinh nắm được các kiểu so sánh mới, so sánh hơn kém . Tuần 7- Học sinh nắm được kiểu so sánh sự vật với con người v.v Nắm được yêu cầu trên, giáo viên cần căn cứ vào đối tượng cụ thể của học sinh mình để dạy, giúp các em nắm kiến thức trọng tâm hoặc có thể mở rộng nâng cao thêm với học sinh khá giỏi. Ví dụ : Ở tuần 7 sau khi chốt kiến thức cơ bản, giáo viên có thể hỏi thêm:
- cách so sánh sự vật này với sự vật khác như vậy có tác dụng gì? (nhằm làm tăng thêm vẻ đẹp của sự vật được nói tới ). Tôi thống kê phân tích các hướng nghiên cứu biện pháp so sánh trong phân môn Luyện từ và câu của chương trình sách giáo khoa lớp 3 phục vụ cho việc giảng dạy. Kiến thức lý thuyết về so sánh tu từ được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3 ở phân mônLuyện từ và câu. Toàn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập I đã dạy về so sánh gồm 8 bài với các kiểu so sánh sau: -Kiểu so sánh 1: So sánh Sự vật - Sự vật. -Kiểu so sánh 2: So sánh Sự vật - Con người. -Kiểu so sánh 3: So sánh Hoạt động - Hoạt động. -Kiểu so sánh 4: So sánh Âm thanh - Âm thanh. Tác giả sách giáo khoa đã giúp học sinh nhận diện dạng, loại và phân biệt hiệu quả so sánh qua các dạng bài tập. Tùy theo nội dung và từng đối tượng học sinh, giáo viên có thể áp dụng các biện pháp hoặc một biện pháp chủ đạo kết hợp với một số biện pháp bổ trợ khác, về cơ bản tôi thấy có một số biện pháp sau: Phân biệt kiểu so sánh phân môn Luyện từ và câu lớp 3: Trong sách giáo khoa có ít bài tập sáng tạo, kiến thức còn mang tính trừu tượng nên giáo viên cần phải sưu tầm nhiều dạng bài sáng tạo và kiến thức cụ thể nói theo tình huống. Vì khi giáo viên đưa lệnh bài tập cần rõ ràng để học sinh hiểu được mục đích yêu cầu của bài tập. Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng Việt người giáoviên cần lồng ghép giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với nhau như khi dạy bài: Tập đọc: “Hai bàn tay em” (Trang 7- Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 - Tập I) Trong bài này có rất nhiều hình ảnh tu từ so sánh giáo viên cần nhấn mạnh để gây hứng thú cho tiết tiếp theo của môn Luyện từ và câu. Để học sinh học tốt môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu, dạng bài tu từ so sánh học sinh cần nắm và làm theo cácyêu cầu sau - Đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài sau đó mới làm bài. Muốnhọc sinh của mình có một kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh vững vàng đòi hỏingười giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn các dạng bài tập về kiểu bài so sánh như: a) Kiểu so sánh 1: So sánh Sự vật - Sự vật. * Ví dụ: Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây: “Hai bàn tay em Như hoa đầu cành” (Huy Cận) “Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch” (Vũ Tú Nam) “Cánh diều như dấu á
- Ai vừa tung lên trời" (Lương Vĩnh Phúc) “Ơ cái dấu hỏi Trông ngộ ngộ ghê Như vành tai nhỏ Hỏi rồi lắng nghe” (Phạm Như Hà) Để làm tốt bài tập này học sinh phải nắm chắc các từ chỉ sự vật, từ đó các em sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên là: “Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành”. “Mặt biển” so sánh với “tấm thảm khổng lồ”. “Cánh diều” so sánh với “dấu á” “Dấu hỏi” so sánh với “vành tai nhỏ”. Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với “hoa đầu cành”? Lúc đó giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn: Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa (Cho học sinh quan sát tranh ảnh để các em dễ nhận thấy điếm giống nhau). Hay vì sao nói “Mặt biển” như “tấm thảm khổng lồ”? Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp; Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á. (Giáo viên có thể giới thiệu hình ảnh “Cánh diều” và vẽ lên bảng “dấu á”) để học sinh quan sát, so sánh. Dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai. (Giáo viên có thể cho học sinh nhìn vào vành tai bạn hoặc cho học sinh quan sát tranh). b) Kiểu so sánh 2: So sánh Sự vật - Con người. * Ví dụ: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây: “Trẻ em như búp trên cành Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan” (Hồ Chí Minh) “Bà như quả ngọt chín rồi Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng”. (Võ Thanh An) Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con người nhưng các em chưa giải thích được “Vì sao?”. Chính vì thế điều đó giáo viên giúp học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn: “Trẻ em” giống như“búp trên cành”. Vì đều là những sự vật còn tươi non đang phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng. Bà sống đã lâu, tuổi đã cao giống như “quả ngọt chín rồi” đều phát triển đến độ già dặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng. d) Kiểu so sánh 3: So sánh Hoạt động - Hoạt động * Ví dụ: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau: “Con trâu đen lông mượt
- Cái sừng nó vênh vênh Nó cao lớn lênh khênh Chân đi như đập đất” (Trần Đăng Khoa) Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đập đất” qua từ “như”. “Cau cao, cao mãi Tàu vươn giữa trời Như tay ai vẫy Hứng làn mưa rơi” (Ngô Viết Dinh) Dạng bài tập yêu cầu học sinh tạo lập các hình ảnh, các câu thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh dựa trên ngữ liệu có sẵn hoặc một phần do học sinh phải tự tạo lập.Hoạt động “vươn” của tàu lá cau giống hoạt động “vẫy” tay của con người. “Con mẹ đẹp sao Những hòn tơ nhỏ Chạy như lăn tròn Trên sân trên cỏ” Hoạt động “chạy” so sánh với hoạt động “lăn tròn” qua từ “như”. Hoạt động chạy của những chú gà con được miêu tả giống như hoạt động lăn tròn của những hòn tơ nhỏ. Đó là miêu tả bằng cách so sánh. Có thể miêu tả bằng cách so sánh như vậy vì chú gà con thường có lông màu vàng óng như tơ, thân hình lại tròn nên các chú chạy giống như những hòn tơ đang lăn. e) Kiểu so sánh 4: So sánh Âm thanh - Âm thanh * Ví dụ: Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ, văn dưới đây: “Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai” (Nguyễn Trãi) Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ “như”. Chẳng hạn: “Tiếng suối” được so sánh với “tiếng đàn cầm” qua từ “như”. * Ngoài các kiểu so sánh so sánh trên học sinh còn được làm quen với kiểu so sánh: Ngang bằng và không ngang bằng (hay còn gọi là so sánh hơn kém). So sánh ngang bằng dùng các từ so sánh: như, là, tựa, như thể -Ví dụ: “Nhìn từ xa những mảng tường vàng, ngói đỏ như những cánh hoa lấp ló trong cây”.Cũng có khi so sánh ngang bằng không dùng từ so sánh mà dùng dấu câu như dấu gạch ngang, dấu hai chấm. Ví dụ: “Thân dừa bạc phếch tháng năm
- Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao Đêm hè, hoa nở cùng sao Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.” (Trần Đăng Khoa) Hay: “Đồng ruộng: vựa thóc thơm” (Phạm Hổ) So sánh không ngang bằng dùng các từ so sánh: hơn, kém, chẳng bằng Ví dụ: “Những ngôi sao thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con” (Trần Quốc Minh) Hay: “Bế cháu ông thủ thỉ Cháu khỏe hơn ông nhiều! Ông là buổi trời chiều Cháu là ngày rạng sáng” (Phạm Cúc) “Trăng khuya sáng hơn đèn” (Trần Đăng Khoa) Các dạng bài tập về biện pháp so sánh học sinh phải nhận diện được những sự vật được so sánh, những hình ảnh so sánh những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu. Cảm nhận và nêu được tác dụng của so sánh. Tập đặt câu dùng hình ảnh so sánh (dựa vào các bức tranh để đặt câu) Ví dụ: Bài tập 3 trang 126. Dựa vào bức tranh mặt trăng và quả bóng, giáo viên hướng dẫn cho học sinh: Chúng ta sẽ so sánh mặt trăng với quả bóng, muốn so sánh ta phải tìm điểm giống nhau giữa mặt trăng và quả bóng, học sinh đặt được câu: Ông trăng tròn như quả bóng. Từ đó gợi ý học sinh đặt được các câu khác có hình ảnh so sánh như Bé cười tươi như hoa. Đèn điện sáng như sao . Đất nước ta cong cong hình chữ S. So sánh là đối chiếu hai hay nhiều sự vật, sự việc có nét tương đồng, có dấu hiệu chung nào đó nhằm tăng sức gợi cảm hoặc diễn tả một cách cụ thể hình ảnh đặc điểmcủa sự vật, sự việc. Trong thực tế có hai loại so sánh là so sánh tu từ và so sánh luận lý. So sánh tu từ còn gọi là so sánh hình ảnh.
- Ví dụ: “Ông trăng tròn sáng tỏ Soi rõ sân nhà em Trăng khuya sáng hơn đèn Ơi ông trăng sáng tỏ” (Trần Đăng Khoa) Mục đích của so sánh tu từ nhằm diễn tả hình ảnh đặc điểm của sự vật, sự việc. Chính do đặc điểm này mà so sánh tu từ mang tính chất khoa trương. So sánh luận lý nhằm mục đích xác lập sự tương đương giữa hai đối tượng. Vỉ dụ: Bảo cũng học giỏi như Hoàng. Trong quá trình dạy học so sánh, giáo viên cần giúp học sinh phân biệt rõ ràng hai loại so sánh trên để tránh sự nhầm lẫn khi nhận biết cũng như tạo lập các hình ảnh tu từ trong văn nói cũng như văn viết. So sánh có hai bình diện đó là so sánh đồng loại và so sánh khác loại. So sánh đồng loại là so sánh giữa người với người, vật vớivật. Ví dụ: “Hai bàn tay em Như hoa đầu cành” So sánh khác loại là so sánh giữa vật với người, so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng. Ví dụ: “Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” Tôi đã thực hiện tốt Biện pháp 2: Thống kê phân tích các biện pháp so sánh trong phân môn Luyện từ lớp 3giúp học sinh nắm chắc các kiểu so sánh và làm bài không bị nhầm lẫn. Học sinh xác định rõ muốn so sánh chúng ta phải có hai sự vật có các từ dùng để so sánh như từ : là, như , tựa Biện pháp 3: Mở rộng, nâng cao các kiểu của phép so sánh trong phân môn Luyện từ lớp 3 * Mở rộng, nâng cao các kiểu của phép so sánh gồm 4 yếu tố: + Yếu tố 1 là yếu tố được hoặc bị so sánh (tùy theo việc so sánh là tích cực hay tiêu cực). + Yếu tố 2 là từ ngữ chỉ phương diện so sánh + Yếu tố 3 là từ ngữ chỉ ý so sánh hay còn gọi là từ so sánh. + Yếu tố 4 là yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh. Ví dụ: “Đôi mắt long lanh như thủy tinh” Trong thực tế kiểu so sánh nói trên có thể có sự biến đổi, có nhiều trường hợp so sánh không đầy đủ cả 4 yếu tố. So sánh vắng yếu tố 2 được gọi là so sánh chìm. Sosánh chìm khiến cho sự liên tưởng được rộng rãi hơn kích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn. Ví dụ:
- “Dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng” So sánh vắng cả 2 yếu tố: yếu tố 2 và yếu tố 3 được gọi là so sánh sử dụng chỗ ngắt giọng và hình thức đối chọi. Ví dụ: “Trường Sơn: chí lớn ông cha Cửu Long lòng mẹ bao la sóng trào”. Hay: “Máy bay: chim sắt lớn Có trái tim động cơ” Có những trường hợp có thể được đảo lên trước cùng với từ so sánh. Ví dụ: Giống như những con chim màu vàng, những chiếc lá phong lượn tròn trên không trung và rơi xuống mặt đất. Có rất nhiều từ ngữ được sử dụng làm yếu tố thể hiện quan hệ so sánh như: như, tựa như, là, bao nhiêu, bấy nhiêu, giống, giống như, chẳng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu Ví dụ: Những thân cây tràmvươn thẳng lên trời như những cây nến khổng lồ” Đoàn Giỏi “So sánh” là một nội dung được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3, các kiến thức được cung cấpcho học sinh thông qua hệ thống bài tập không lý thuyết nên hệ thống dữ liệu được lựa chọn phải thực sự chính xác cho học sinh. Nội dung so sánh được cung cấp chohọc sinh thông qua hệ thống bài tập thực hành với mục tiêu cụ thể là: Học sinh nhậnbiết biện pháp so sánh bao gồm hình ảnh so sánh, các kiểu so sánh: ngang bằng, hơn kém; sự vật - sự vật, âm thanh - âm thanh, hoạt động - hoạt động, từ so sánh, phương tiện so sánh trong các bài học trong ngôn từ nói hàng ngày, kể cả lời nói của chính các em. Rèn luyện kỹ năng sử dụng biện pháp so sánh trong giao tiếp.Mở rộng , nâng cao vốn hiểu biết cho học sinh về các biện pháp so sánh giúp các em học tốt môn luyện từ và câu ở lớp 4 * Kết quả đạt được Qua việc áp dụng biện pháp: Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 của trường Tiểu học Bình Dương, tôi thấy kết quả đã có những chuyển biến nhất định. Học sinh biết nhận biết biện pháp so sánh đã được nâng cao. Năm 2020-2021 tôi áp dụng biện pháp trên vàodạy lớp 3C do trực tiếp tôi giảng dạy, kết quả đạt được đến cuối học kỳ I là: ( phần luyện từ và câu)
- Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % 24 70,6 8 23,5 2 5,9 0 0 c. Điều chỉnh, bổ sung sau thực nghiệm c1. Đối với giáo viên: Mỗi giáo viên cần nắm vững nội dung chương trình, cấu trúc SGK về “Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3” để xác định được trong mỗi tiết học phải dạy cho học sinh cái gì, dạy như thế nào ? Dạy “Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3” không thể nóng vội mà phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỉ mỉ, những cũng rất cương quyết để hình thành cho học sinh một phương pháp tư duy học tập, đó là tư duy khoa học, tư duy sáng tạo, tư duy lôgic. Rèn cho học sinh đức tính chịu khó cẩn thận trong “Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3” nói riêng và học tiết luyện từ câu nói chung. Quá trình sử dụng đồ dùng trực quan phải linh động và phù hợp với mỗi bài dạy, giúp các em lĩnh hội kiến thức mới một cách dễ dàng, hứng thú hơn trong mỗi tiết học. Thường xuyên tổ chức đánh giá và giám sát học sinh. Luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh và đầu tư giúp đỡ cho học sinh yếu kém. Cần tuyên dương, khen thưởng kịp thời, đúng lúc. c2. Đối với học sinh: - Học sinh phải có đầy đủ đồ dùng học tập, có ý thức tích cực tự giác trong học tập. - Học sinh cần trình bày bài sạch đẹp hơn. 4. Kết luận Tiếng Việt là môn học khó, nhất là phân môn Luyện từ và câu đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú. cần phải có vốn sống thực tế, người giáoviên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy, biết gợi mở óc tò
- mò,khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em hiểu nghĩa từ, so sánh ngôn ngữ đạt hiệu quả. - Điều cốt yếu với mọi tiết Luyện từ và câu là cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng tìm từ, dùng từ đặt câu cho học sinh. Học sinh đã giải nghĩa được một số từ ngữ đơn giản, so sánh được các sự vật trong tranh hoặc bằng câu hỏi. -Giáo viên đã hình thành cho các em biết cách dùng từ đặt câu, hiểu nghĩa từ, tìm các từ so sánh Giáo viên nhiệt tình và kiên trì rèn luyện, kết hợp giữa phương pháp và biện pháp một cách nhuần nhuyễn, đổi mới phương pháp giảng dạy từ cũ sang mới. Học sinh có một kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh tương đối vững vàng, các em ngày càng ham học môn Luyện từ và câu. Qua tiết Luyện từ và câu, học sinh có khả năng nắm vững được các kiến thức cơ bản của từng bài để từ đó các em có thể phát triển theo hướng làm thêm được các bài tập nâng cao về đặc điểm của từ,so sánh các sự vật, âm thanh, *Tôi đã áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng dạy môn Luyện từ và câu, rèn kỹ năng nhận biết các biện pháp so sánh, nhân hóa trong bài văn, bài thơ, nhận thấy học sinh có tiến bộ rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức hơn khi làm bài dẫn đến bài ít mắc lỗi về dùng từ đặt câu, biết được những hình ảnh so sánh dựa vào tranh ảnh hoặc câu hỏi gợi ý, các em sử dụng ngôn ngữ trong thực tiễn giao tiếp, tích cực hóa vốn từ,hình thành các kỹ năng ngôn ngữ, phân môn Luyện từ và câu không chỉ cung cấp chohọc sinh một số vốn từ đa dạng, phong phú mà còn giúp học sinh có kỹ năng sử dụng từ ngữ một cách thành thạo đạt hiệu quả cao trong hoạt động giao tiếp hàng ngày,bước đầu cung cấp cho học sinh một số kỹ năng sơ giản về từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt. Để đạt được mục tiêu dạy – học và góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học thì việc tìm tòi sáng tạo, đúc rút kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy của người giáo viên là thực sự cần thiết. Qua mỗi bài học, mỗi môn học, người giáo viên lại rút được kình nghiệm thiết thực cho bản thân để bài học sau giảng dạy tốt hơn bài hôm trước. Thấy được việc nào cần làm, cần hướng dẫn học sinh như thế nào để học sinh hiểu bài, nắm bắt được kiến thức một cách có hệ thống, chính xác và kết quả học tập của học sinh ngày càng tốt hơn. Tôi luôn quan tâm, chăm chút học sinh trong từng tiết học. Với mỗi loại bài tập, tôi nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy để lựa chọn và tổ chức những hình thức luyện tập sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, luôn động viên khuyến khích, khơi gợi ở học sinh trí tưởng tượng, óc sáng tạo. Môn Luyện từ và câu với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng củng cố lý thuyết biết cách dùng từ so sánh, biết phân biệt, biết cách so sánh tu từ và ở nhiều thể loại bài tập khác nhau. Vì vậy, tôi không ngừng học hỏi, cải tiến phương