Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở Lớp 3
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_do_hoc_sinh_khac.doc
BP_Toan_3_Nguyen_Thi_Bich_Ngoc_47e68.pptx
Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở Lớp 3
- 1 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. MỤC LỤC Mục Nội dung Trang I PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 2 1 Lí do chọn đề tài 2 2 Tính mới của đề tài 4 3 Mục đích nghiên cứu 4 4 Đối tượng nghiên cứu 4 5 Phương pháp nghiên cứu 4 II PHẦN II. NỘI DUNG 5 1 Thực trạng của vấn đề 5 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải 2 các bài toán điển hình ở lớp 3. 10 3 Kết quả đạt được 21 4 Kết luận 22 5 Kiến nghị, đề xuất 23 Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 2 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài: Đất nước ta đang trên đà phát triển. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được đề cao. Để đất nước ngày càng phát triển sánh vai cùng với các nước khác trong khu vực và trên thế giới thì điều đó phụ thuộc vào các thầy cô giáo và các thế hệ học sinh của chúng ta. Tất cả những ai trong ngành giáo dục và những ai quan tâm đến sự nghiệp giáo dục đều mong mỏi cho con em mình tiếp nhận những kiến thức sâu rộng của nền văn minh nhân loại và trở thành những con người có trình độ học thức, có đức, có tài để phục vụ đất nước. Bậc Tiểu học là bậc học tạo nền tảng vững chắc cho các em học sinh vào đời. Được đến trường, đến lớp đó là vinh dự, là niềm vui lớn lao của mỗi trẻ thơ. Mục tiêu của giáo dục - đào tạo hiện nay là giáo dục học sinh một cách toàn diện. Sau khi học xong tiểu học, các em được lĩnh hội những kiến thức, kĩ năng mà các môn học đã trang bị cho các em để các em tiếp tục học lên lớp trên. Toán học là một mảng kiến thức xuyên suốt quá trình học toán của học sinh. Nó không chỉ truyền thụ và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo tính toán để giúp các em học tốt môn khác mà còn giúp các em rèn luyện trí thông minh, óc tư duy sáng tạo, khả năng tư duy lôgic, làm việc khoa học. Vì vậy chúng ta cần phải quan tâm tới việc dạy toán ở Tiểu học. Trong chương trình toán ở Tiểu học cũng như chương trình toán lớp 3 gồm 4 mạch kiến thức cơ bản. Trong đó giải các bài toán có lời văn có vị trí đặc biệt quan trọng. Việc dạy học giải toán giúp học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của con người mới. Giải toán là một mạch kiến thức cơ bản của toán học, nó không chỉ giúp cho học sinh thực hành vận dụng những kiến thức đã học mà còn rèn cho học Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 3 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. sinh khả năng diễn đạt ngôn ngữ qua việc trình bày lời giải một cách rõ ràng, chính xác, khoa học, thông qua việc giải toán có lời văn học sinh được giáo dục nhiều mặt trong đó có ý thức đạo đức. Ngày nay, trong quá trình dạy học, chương trình sách giáo khoa mới đòi hỏi người giáo viên cần vận dụng những phương pháp dạy học mới (phương pháp dạy học tích cực). Xuất phát từ định hướng đổi mới phương pháp dạy học phù hợp đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, tự rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Tuy nhiên trong quá trình dạy học, người giáo viên còn vận dụng phương pháp dạy học truyền thống dẫn đến kết quả giảng dạy chưa cao, làm giảm hứng thú học tập của học sinh. Đây là một khó khăn không nhỏ đối với giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học hiện nay. Đặc biệt là việc hướng dẫn học sinh giải các bài toán có lời văn của giáo viên còn lúng túng về nhiều mặt. Một phần không nhỏ học sinh gặp khó khăn khi giải bài toán có lời văn. Các em còn nhầm lẫn sai sót, trình bày bài giải chưa chính xác. Việc hình thành kỹ năng của học sinh còn chậm, khả năng suy luận hạn chế. Ngoài ra, còn do điều kiện gia đình càng ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của các em. Vậy làm như thế nào để nâng cao chất lượng dạy học môn toán ở trường Tiểu học ? Làm thế nào để nâng cao hứng thú học tập cho học sinh ? . Hàng loạt câu hỏi đặt ra và nó đã làm cho bao nhiêu thế hệ thầy cô phải trăn trở suy nghĩ. Là một giáo viên đã trực tiếp giảng dạy nhiều năm lớp 3, tôi nhận thấy mình phải có trách nhiệm trong việc giúp đỡ học sinh có được kết quả học tập môn toán cao hơn. Xuất phát từ yêu cầu quan trọng của môn học và tình hình thực tế việc dạy và học Toán như trên, tôi đã nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3” Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 4 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. 2. Tính mới của đề tài: Qua nghiên cứu tôi đã đưa ra một số biện pháp và đúc kết được một số kinh nghiệm để giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. 3. Mục đích nghiên cứu: - Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của học sinh gặp khó khăn khi học Toán - Phân tích nguyên nhân của học sinh gặp khó khăn khi học Toán. - Tập dượt bồi dưỡng nghiên cứu khoa học cho bản thân. - Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Toán ở Tiểu học. 4. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực trạng giải toán điển hình của 50 học sinh lớp 3A8 Trường Tiểu học Suối Hoa. Thời gian nghiên cứu đề tài: Từ năm học 2020- 2021 đến năm 2021-2022. 5. Phương pháp nghiên cứu: Trong qua trình nghiên cứu tôi có sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu luận: Nghiên cứu các cơ sở phương pháp luận, các tài liệu, tạp chí có liên quan đến việc đổi mới phương pháp dạy học. - Phương pháp gợi mở, vấn đáp. - Phương pháp giải quyết vấn đề. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. - Phương pháp luyện tập, thực hành . - Phương pháp phân tích ngôn ngữ. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 5 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. PHẦN II. NỘI DUNG 1. Thực trạng của vấn đề: 1.1. Những thuận lợi, khó khăn: *Thuận lợi - Cơ sở vật chất nhà trường hiện đại, khang trang phù hợp với lứa tuổi học sinh. - Nhìn chung các em học sinh ngoan, tham gia tích cực các hoạt động của trường của lớp. - Phụ huynh có sự quan tâm đối với việc học tập của con em mình. - Về phía giáo viên: Hầu hết các thầy cô đều yêu nghề, tâm huyết với nghề nghiệp, có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao, 100% giáo viên đã đạt chuẩn và trên chuẩn. * Khó khăn - Còn học sinh chưa được bố mẹ quan tâm, ít chú ý đến việc học tập. Phụ huynh tiếp cận được với phương pháp học tập theo chương trình đổi mới còn hạn chế. - Một số học sinh tăng động giảm tập trung chú ý nên nắm bắt phương pháp giải toán còn chậm. - Số lượng học sinh trong lớp học đông nên giáo viên không dành được nhiều thời gian cho các em học sinh gặp khó khăn khi giải toán. - Một số em bị áp lực về thành tích học tập và sự kì vọng của phụ huynh nên tâm lí luôn căng thẳng, lo sợ sẽ hạn chế tiếp thu nội dung bài. - Một số ít học sinh khả năng tiếp thu chậm nên cảm thấy khó khăn, chán nản khi làm bài. - Thực trạng của học sinh hiện nay có thể khẳng định rằng học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng còn hạn chế về khả năng phân tích, tư duy khi giải bài toán có lời văn. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 6 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. 1.2. Thực trạng việc dạy học giải toán điển hình của giáo viên: - Muốn học sinh học tập đạt kết quả thì vấn đề đặt ra cần phải đề cập đến là phương pháp giảng dạy, là cách thức tổ chức hoạt động học tập cho học sinh và quan trọng hơn cả là người giáo viên có trình độ kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm giảng dạy - Qua điều tra thực tế dạy học môn Toán của giáo viên trường Tiểu học Suối Hoa thành phố Bắc Ninh, tôi nhận thấy một thực trạng như sau: + Về trình độ: giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn. Trong quá trình giảng dạy có nhiều giáo viên sáng tạo, có ý thức nâng cao tay nghề. Tuy nhiên việc vận dụng những phương pháp dạy học mới, vận dụng các kiến thức đã có vào việc giảng dạy của một số giáo viên còn chưa đồng đều. + Năng khiếu sư phạm của mỗi giáo viên là khác nhau. Vẫn còn những giáo viên khả năng truyền đạt còn hạn chế dẫn đến việc hướng dẫn học sinh giải bài toán đôi khi còn lúng túng. Kiến thức cơ bản nhiều khi còn bị lãng quên, sự đầu tư vào chuyên môn chưa nhiều. 1.3. Thực trạng việc học giải toán điển hình của học sinh lớp 3: Trong khi nghiên cứu đề tài này tôi đã điều tra đối chứng hai lớp 3 của trường. Tôi nhận thấy học sinh thường gặp khó khăn khi giải bài toán có lời văn có nội dung hình học, bài toán liên quan đến rút về đơn vị và một số dạng toán khác. Khi giải các dạng toán này, các em thường hay mắc phải sai sót như sau: a. Bài toán có lời văn có nội dung hình học - Học sinh chưa đọc kỹ đề bài, xác định yêu cầu bài toán chưa đúng, không biết bài toán thuộc loại toán nào dẫn đến việc áp dụng công thức, quy tắc nhầm, lẫn lộn với nhau, kết quả giải toán bị sai. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 7 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. + Khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình chữ nhật thì lại áp dụng quy tắc tính chu vi hình vuông và ngược lại khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông thì lại áp dụng quy tắc quy tắc tính chu vi hình chữ nhật. + Khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông và chu vi hình chữ nhật thì học sinh yếu, kém không nắm chắc quy tắc để vận dụng quy tắc tính, nhầm giữa tính chu vi hình vuông sang tính diện tích hình vuông, nhầm giữa tính chu vi hình chữ nhật sang tính diện tích hình chữ nhật. + Trong bài giải bài toán về chu vi, diện tích các hình (Bài 3 trang 155- Toán 3) khi viết tên đơn vị đo, các em còn bỏ sót, nhầm lẫn. Thông thường số đo các cạnh là đơn vị đo nào thì chu vi có cùng đơn vị đo đó, nhưng với diện tích thì đơn vị đo lại khác. Chẳng hạn: Với hình chữ nhật có chiều dài 9 cm, chiều rộng 6 cm thì đơn vị đo của chu vi là cm, nhưng đơn vị đo của diện tích là cm2. Cụ thể là: Chu vi hình chữ nhật là: (9 + 6 ) x 2 = 30 (cm) Diện tích hình chữ nhật là: 9 x 6 = 54 (cm2) + Trong trường hợp số đo các cạnh không cùng đơn vị thì học sinh chưa biết đổi ra cùng đơn vị đo. VD: Tính diện tích và chu vi hình chữ nhật có chiều dài là 4dm, chiều rộng là 8cm. - Học sinh yếu kém nhận diện hình chậm, không hiểu thuật ngữ toán học, không biết bài đã cho dữ kiện nào để áp dụng vào giải toán. Không nắm được các thao tác giải toán, không biết tư duy bài toán (bằng lời hoặc hình vẽ) nên trình bày sai lời giải, sai bài toán, đáp số sai, thiếu. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 8 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. - Học sinh yếu còn nhầm khi bài toán cho chu vi hình vuông đi tìm cạnh, học sinh không hiểu bài toán ngược lại áp dụng công thức cạnh hình vuông bằng chu vi chia cho 4. - Ngoài ra còn một số bài toán đòi hỏi học sinh phải tư duy tìm các công thức đã cho để giải. Khả năng giải bài toán mang tính chất tổng hợp kiến thức của các em còn kém, các em quên mất kiến thức cũ liên quan nên giải bài toán bị sai. VD: Bài toán + Cho cạnh hình vuông tính chu vi và diện tích, học sinh nhầm giữa hai cách tính nên kết quả bị sai. + Cho chiều dài, chiều rộng hình chữ nhật.Tính chu vi, diện tích. Học sinh lại nhầm hai công thức tính dẫn đến kết quả sai. b. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị Dạng 1 + Bước 1: Rút về đơn vị, tìm giá trị một phần - Học sinh nhầm khi trả lời chưa rõ ràng - Sau khi thực hiện phép tính chia ghi danh số sai với câu trả lời VD: Bài 2 trang 128 “Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao có bao nhiêu ki-lô-gam gạo?” Học sinh trả lời sai: Danh số kết quả sau: 28 : 7 = 4 (bao) Học sinh phải làm đúng là: 28 : 7 = 4 (kg) Bước 2: Tìm 5 bao có số ki-lô-gam gạo là: 4 x 5 = 20 (kg) Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 9 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. Học sinh hay đặt ngược phép tính là: 5 x 4 = 20 (bao) Như vậy: Khi học sinh giải bài toán dạng 1 hay trả lời sai hoặc sai danh số, phép tính sai vì đặt ngược. Dạng 2: Bước 1: Tìm giá trị một phần thực hiện phép chia Bước 2: Biết giá trị một phần thực hiện phép chia để tìm kết quả theo câu hỏi của bài toán. - Học sinh thường sai: Trả lời sai, ghi danh số nhầm VD: Bài toán 2 trang 166 Bước 1: Tìm giá trị một phần - Học sinh trả lời sai 1.4. Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên a. Về phía giáo viên : Trong giảng dạy, một số giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học chưa linh hoạt, nhịp độ giảng dạy quá nhanh khiến học sinh yếu, kém không theo kịp. Một số giáo viên còn chưa nhiệt tình, chưa hết mình với học sinh. Việc đầu tư cho chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. b) Về phía học sinh: + Sự phát triển nhận thức của học sinh không đồng đều, một số em còn chậm, hoạt động tư duy logic kém. Việc lĩnh hội kiến thức ở các lớp trước chưa đầy đủ, còn những lỗ hổng về kiến thức. Một số em có thái độ học tập chưa tốt, ngại cố gắng, thiếu tự tin. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 10 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. + Ngoài ra, có em do sức khỏe chưa tốt, gia đình chưa quan tâm đến việc học hành của các em. Một số phụ huynh do không nắm được cách giải toán ở tiểu học nên không hướng dẫn được cho các em. + Dịch covid 19 diễn biến phức tạp, kéo dài. Các em học sinh nghỉ học nhiều quên kiến thức. Việc học trực tuyến không hiệu quả đối với những học sinh không tự giác. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả dạy và học xong đây chỉ là một số nguyên nhân mà trong chương trình công tác và nghiên cứu làm đề tài tôi phát hiện ra. Những nguyên nhân trên tác động lẫn nhau làm giảm hứng thú học tập của học sinh, làm cho cac em thiếu tự tin cố gắng vươn lên dẫn đến kết quả học tập chưa tốt. Để khắc phục những tồn tại trên cần phải có biện pháp khắc phục hợp lí. 2. Các biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. Việc dạy học giải toán ở tiểu học là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán. Giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh nắm vững khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán. Vậy qua quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài tôi xin đưa ra một số biện pháp sau đây. a) Biện pháp 1: Trang bị những công thức, quy tắc, kỹ năng giải toán Mục tiêu : Giúp học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản để vận dụng giải toán. Cách thực hiện : Trang bị những công thức, quy tắc, kỹ năng giải toán cho học sinh là vấn đề vô cùng quan trọng trong việc truyền tải kiến thức cho học sinh, thay thế cho Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 11 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. việc giáo viên áp đặt kiến thức cho học sinh buộc học sinh phải thuộc lòng những điều giáo viên thuyết trình (phương pháp dạy học truyền thống) bằng việc giáo viên là người dẫn dắt các em tự mình tìm tòi khám phá kiến thức mới (phương pháp dạy học tích cực). Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần vận dụng triệt để biện pháp này vì học sinh muốn giải được các bài toán thì cần phải được trang bị đầy đủ những kiến thức có liên quan đến việc giải toán mà những kiến thức này chủ yếu được cung cấp qua các tiết lý thuyết. Do vậy dưới sự dẫn dắt của giáo viên, học sinh cần tìm ra được cách giải bài toán và cần phải được chính xác hóa nhờ sự giúp đỡ của giáo viên. Qua quá trình tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới dựa trên những cái đã biết giúp các em hiểu sâu hơn, nhớ lâu kiến thức ấy hơn nếu như tự mình tìm ra kiến thức ấy Học sinh cần nắm chắc quy tắc, công thức tính, các bước tính của một phép tính từ đó mới rèn luyện được kỹ năng tính toán. Đối với loại toán có nội dung hình học thì khả năng nhận biết các đặc điểm cảu một hình vẽ là rất quan trọng. Ví dụ: Khi dạy về “Diện tích hình chữ nhật” giáo viên cần cho học sinh nhắc lại đặc điểm của hình chữ nhật thông qua hình vẽ. + Khả năng cắt ghép hình tam giác thành hình chữ nhật. + Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh nhớ rõ các ký hiệu hình vẽ. Chẳng hạn, đâu là cạnh chiều dài của hình, đâu là cạnh chiều rộng của hình chữ nhật. Từ đó học sinh biết vận dụng vào giải các bài toán áp dụng trực tiếp quy tắc đã xây dựng để vận dụng tính. Bài tập VD: Cho hình chữ nhật có cạnh dài là 8cm, cạnh ngắn là 5cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó ? Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 12 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. Với bài tập này học sinh chỉ cần vận dụng đúng quy tắc, công thức đã được trang bị là giải được ngay. Cũng có những bài toán đòi hỏi học sinh phải có khả năng tư duy thì mới giải được. Do vậy, giáo viên cần rèn cho các em kỹ năng này. VD: Bài toán: Cho hình chữ nhật có nửa chu vi là 22cm, cạnh ngắn là 9 cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó ? - Khi giải bài toán không có cùng đơn vị đo thì phải biết đổi ra cùng một đơn vị đo. VD: Số đo cạnh theo mm, số đo diện tích theo cm 2. Vậy phải đổi số đo cạnh ra cm. - Giáo viên cần lưu ý cho học sinh: + Với hình chữ nhật có số đo chu vi là cm, thì đơn vị đo của diện tích là cm2 + Với hình vuông có số đo chu vi là cm thì đơn vị đo của diện tích hình vuông là cm2. *Với bài toán liên quan đến rút về đơn vị: Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết đề bài yêu cầu tính cái gì? Bài toán thuộc dạng 1 hay dạng 2 để giải bài toán. Ví dụ: + Bài toán ở dạng 1 thì phải tìm giá trị của một phần là thực hiện phép chia rồi mới tìm được giá trị của nhiều phần (thực hiện phép tính nhân). + Bài toán chia ở dạng 2 thì: Bước 1 cũng phải tìm giá trị một phần (thực hiện phép tính chia) nhưng ở bước 2 thì lại khác với bước 2 ở dạng 1 đó là biết giá trị một phần rồi lại tiếp tục thực hiện phép chia để tìm kết quả theo yêu cầu của bài toán. *Điều quan trọng chủ yếu khi dạy giải toán là dạy học sinh biết cách giải bài toán (phương pháp giải toán). Giáo viên không được làm thay, không được Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 13 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. áp đặt cach giải cần phải tạo cho học sinh tự tìm ra cách giải bài toán tập trung vào 3 bước: + Đọc kĩ đề toán để biết bài toán cho gì, hỏi gì, yêu cầu gì? + Tìm cách giải thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán (giả thiết) với yêu cầu của bài (kết luận) để tìm ra phép tính tương ứng. + Trình bày bài giải, viết câu lời giải, phép tính trung gian và đáp số. b) Biện pháp 2: Hình thành và rèn luyện kĩ năng giải toán điển hình. Mục tiêu : Rèn cho học sinh kĩ năng tư duy suy nghĩ, tìm tòi cách giải. Cách thực hiện : Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của mình, tôi nhận thấy rèn kĩ năng giải toán cho học sinh là một biện pháp không thể thiếu trong qua trình dạy học. Do đặc điểm của môn toán ở tiểu học được cấu tạo theo kiểu đồng tâm các nội dung được củng cố thường xuyên và được phát triển dần từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Sau khi đã lĩnh hội kiến thức, kĩ năng toán học, để định hình vững chắc kiến thức ấy, học sinh cần rèn luyện vận dụng qua các dạng bài tập khác nhau, có yêu cầu cao hơn. Để giải được các bài tập ấy, giáo viên cần hướng dẫn các em tư duy từ cái đã biết để tìm cái chưa biết, rèn cho học sinh óc suy luận, phán đoán và kỹ năng. - Phân tích đề bài toán: Là một kỹ năng quan trọng nhất Ví dụ: Bài toán 1 “Một tờ giấy hình chữ nhật có chiều dài 72cm, chiều rộng bằng 1/8 chiều dài. Tính diện tích tờ giấy đó”. Để giải được bài toán này học sinh cần phải phân tích đề và dựa vào những yếu tố đã biết để giải. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 14 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. + Bài toán đã biết chiều dài chưa? + Bài toán đã biết chiều rộng chưa? Vậy để tính được diện tích tờ giấy thì ta phải tính gì trước? Qua hàng loạt câu hỏi đặt ra để phân tích yêu cầu bài toán, trả lời được các câu hỏi đó, học sinh sẽ làm được bài tập dễ dàng. Với các kỹ năng đã có của học sinh, giáo viên là người giúp học sinh rèn luyện và phát huy những kỹ năng ấy, cần cho học sinh nắm rõ thuật ngữ toán học. Ví dụ: Em hiều rộng bằng 1/8 chiều dài nghĩa là gì? Biết phân tích và tóm tắt bài toán bằng cách ghi các dữ kiện đã cho và câu hỏi của bài toán dưới dạng ngắn gọn nhất. Qua tóm tắt học sinh có thể nêu lại được bài toán, từ đó lập kế hoạch giải, do vậy giáo viên cần hướng dẫn: + Muốn tính được diện tích tờ giấy ta cần biết yếu tố nào? (biết chiều dài, biết chiều rộng). + Tìm chiều rộng bằng cách nào ? Lấy 72 : 8 = 9 (cm) Như vậy với một số câu hỏi gợi mở mà giáo viên đưa ra, học sinh có thể sẽ tìm cách giải bài toán về những kiến thức đã học để có thể áp dụng được công thức tính. *Bài toán liên quan đến rút về đơn vị Giáo viên cũng vận dụng cách hướng dẫn trên, yêu cầu học sinh phân tích kỹ yêu cầu bài toán, xem bài toán thuộc dạng toán 1 hay dạng toán 2. Vận dụng công thức tính đến việc suy luận cho nên việc xác định dạng toán là rất quan trọng. VD: “Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì xếp được bao nhiều hàng như thế ?”. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 15 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. Để giải được bài toán này học sinh cần phải đọc kỹ bài toán phân tích tóm tắt bài toán, xem bài toán cho biết gì ? Bài toán yêu cầu những gì ? Tóm tắt: 24 cúc áo: 4 cái áo 42 cúc áo: cái áo Sau đó lập kế hoạch giải + Bài toán đã cho biết dữ kiện nào ?(4 cái áo thì cần 24 cái cúc). + Bài toán yêu cầu làm gì ? (42 cái cúc áo thì dùng cho mấy cái áo như thế) Vậy muốn biết 42 cúc áo thì dùng cho mấy cái áo thì ta phải đi tính gì trước? (Mỗi cái áo cần mấy cái cúc ?) 24 : 4 = 6 (cúc) Khi đã tính được một cái áo cần mấy cái cúc thì học sinh sẽ tìm được 42 cúc dùng cho mấy cái áo ? (lấy 42 : 6 = 7 (áo) Muốn giải được tốt bài toán này yêu cầu học sinh phải tìm hiểu, phân tích kỹ đầu bài (biết tóm tắt và trình bày bài toán thông qua tóm tắt) lập được kế hoạch bài giải bài toán và kỹ năng vận dụng sáng tạo những kiến thức đã học vào giải các bài toán ở mức độ phức tạp hơn. Do vậy giáo viên nhất thiết phải sử dụng biện pháp này nhằm rèn cho học sinh những kỹ năng trên giúp các em có khả năng giải mọi dạng toán khác nhau. Vận dụng kiến thức tổng hợp để giải toán xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm đúng phép tính thích hợp. c) Biện pháp 3: Giúp HS phân biệt rõ các dạng toán và chuẩn bị cho việc giải toán. Mục tiêu: Hai loại toán ở lớp 3 nói riêng và ở Tiểu học nói chung là: Toán đơn và toán hợp. Mỗi loại toán này có vai trò quan trọng của nó. Việc giải các bài toán hợp thực chất là giải một hệ thống các bài toán đơn. Có kĩ năng giải các bài toán Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 16 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. đơn, học sinh mới có cơ sở giải các bài toán hợp. Do đó giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ bản chất bài toán đơn để vận dụng giải các bài toán phức tạp sau này. Cách tiến hành: Ở lớp 3, cùng với việc học phép nhân, chia, học sinh sẽ giải các bài toán đơn dùng phép nhân hoặc chia. Trong các đầu bài toán bằng lời văn, học sinh thường gặp những từ ngữ như: "Gấp lên, giảm đi bao nhiêu lần", "So sánh hơn, kém bao nhiêu lần". Các từ này thường được gợi ra phép nhân, chia tương ứng. Giáo viên cần chú ý học sinh tránh lẫn lộn "Bao nhiêu lần" với "Bao nhiêu đơn vị" và hiểu đúng khái niệm này. Củng cố thói quen đọc và hiểu đúng đề bài. Giáo viên giúp học sinh nắm vững ý nghĩa của phép nhân và phép chia đồng thời giúp học sinh hiểu đúng các từ quan trọng trong đề toán. Ở lớp 3, các bài toán đơn "Tìm một trong các phần bằng nhau của một số" gắn với phép chia. Đối với học sinh lớp 3, tư duy còn thiên về cụ thể nên hai loại bài toán "chia thành phần bằng nhau" và "chia theo nhóm" tuy đồng nhất về mặt ý nghĩa toán học và đều giải bằng phép tính chia, nhưng lại là hai bài toán khác nhau về mặt ý nghĩa cụ thể. Tuy nhiên khi giải, giáo viên cần hướng dẫn học sinh vượt qua sự khác biệt về mặt tâm lí để tập trung chú ý vào việc tìm ra và thực hiện đúng phép tính thích hợp, còn việc tìm ra từ thích hợp (phép chia), còn việc tìm ra từ thích hợp để "danh số" hoá số thương thì chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sống. Mặt khác, đối với lớp 3, do tư duy của học sinh đã có những tiến bộ, song vốn ngôn ngữ vẫn còn hạn chế, nên việc nâng cao dần dần các yêu cầu về kiến thức và kĩ năng một cách vừa sức học sinh, các yêu cầu về trừu tượng hoá cần được chú ý, nhất là diễn tả các điều kiện, việc sử dụng sơ đồ đoạn thẳng và tia số, thay dần các hình vẽ tượng trưng, cần được coi như một công cụ phổ biến, Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 17 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. tinh lược hoá những từ ngữ của đề toán, giúp các em tiếp cận tốt hơn với nội dung đề bài toán. Từ đó dẫn đến định hướng cách giải toán. Khi học sinh nắm vững cách giải các bài toán đơn, có thể gợi cho học sinh khá, giỏi dùng chữ thay dữ kiện (ở các bài có cấu trúc giống nhau), diễn đạt các cấu trúc toán học, từ đó củng cố ý thức về việc sử dụng các công cụ, thủ thuật toán học giống nhau khi giải chúng. Việc sắp xếp các bài toán đơn mà khi giải học sinh phải vận dụng các phép tính ngược sẽ giúp các em nâng cao và củng cố nhận thức về mối quan hệ giữa các phép tính ngược. Việc sử dụng hình vẽ hay sơ đồ để minh hoạ các điều kiện của bài toán là có ích với học sinh lớp 3 nói riêng, với học sinh Tiểu học nói chung. Tuy nhiên cần phải hiểu rõ tác dụng của chúng (là chỗ dựa cho suy luận) trong việc giải toán. Đối với các bài toán dễ hay đã nắm vững cách giải cần chú ý đến phát huy trí tưởng tượng của học sinh, từng bước thay đổi chỗ dựa trực quan bằng hình ảnh trong óc suy luận, vừa giúp học sinh mở rộng vốn hiểu biết vừa thúc đẩy quá trình tư duy của học sinh. d) Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh giải toán và trình bày bài giải. Mục tiêu : Học sinh trình bày bài giải đúng, chính xác Cách thực hiện : Sau khi đã có những kỹ năng phân tích bài toán và lập được kế hoạch giải cho bài toán thì việc thực hiện cách giải và trình bày bài giải cũng là yếu tố quan trọng. Vậy làm như thế nào để câu trả lời của bài toán không bị sai, phép tính chính xác, ghi đáp số với kết quả phép tính có danh số kèm theo. Giáo viên cần hướng dẫn các em tìm ra các câu lời giải khác nhau nhưng biết trả lời ngắn, gọn mà đủ ý. Bài toán hỏi gì thì trả lời cái đó, nghĩa là biết dựa vào câu hỏi của bài toán để trả lời. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 18 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. Khi trình bày bài giải giáo viên nên khuyến khích các em tìm ra nhiều cách giải. Sau đó hướng dẫn các em vào cách giải, cách trình bày bài giải ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu nhất, lời giải hợp lý nhất để tránh cho học sinh yếu trả lời bài toán sai thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài để biết bài toán cho gì ? Bài toán yêu cầu làm như thế nào dựa vào câu hỏi của bài toán để ghi câu trả lời cho đúng thực hiện phép tính ghi danh số kèm theo chính xác để đáp số bài toán không bị sai theo. *Với bài toán trong khi giải cần đổi đơn vị đo thì giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh nhắc lại cách đổi đã học về đại lượng ấy. Qua đó củng cố những kiến thức có liên quan đến giải toán điển hình có ý nghĩa thực tiễn. Từ đó các em sẽ trình bày đúng bài giải. Chẳng hạn bài toán 1 trang 153, học sinh cần phải nhận xét: Xét 2 cạnh hình chữ nhật không cùng số đo nên phải đổi ra cùng đơn vị đo: 4 dm = 40 cm, sau đó mới trình bày bài giải: 4 dm = 40 cm Diện tích hình chữ nhật là: 40 x 8 = 320 (cm2) Chu vi hình chữ nhật là: (40 + 8 ) x 2 = 96 (cm) Đáp số: 320 cm2; 96 cm Khi học giải toán xong, giáo viên phải cho học sinh kiểm tra cách giải và kết quả là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán và trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ tiểu học. Việc này nhằm phân tích (thử lại) cách giải hay đúng sai. Khi đã có những kỹ năng giải toán tốt giáo viên cần dạy cho học sinh những thủ thuật giải toán trong từng khâu, từng bước giải. *Ngoài ra những biện pháp đã nêu ở trên để có kết quả học tập tốt thì mỗi giáo viên cần có tâm huyết với nghề, có nghệ thuật sư phạm, có trách nhiệm Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa
- 19 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. trước học sinh. Đặc biệt là phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, phải luôn tự bồi dưỡng trau dồi nâng cao trình độ nhận thức cho bản thân. Giáo viên cần có năng lực tổ chức các hoạt động dạy học phong phú nhằm thu hút học sinh tham gia tốt vào hoạt động học và rèn luyện cho học sinh năng lực khái quát hóa trong giải toán. e) Biện pháp 5 : Hướng dẫn học sinh kiểm tra, đánh giá kết quả. Mục tiêu : Rèn học sinh kĩ năng tự kiểm tra đánh giá bài giải của chính mình để biết mình làm bài đúng hay sai. Cách tiến hành : Học sinh thường coi rằng bài toán đã giải xong, khi tính đáp số hoặc tìm được câu trả lời cho câu hỏi. Thế nhưng không phải học sinh nào cũng có niềm tin chắc chắn vào kết quả mình tìm được, chỉ cần giáo viên hỏi lại một và câu là các em lại lúng túng, nghi ngờ cách giải của mình. Do đó kiểm tra cách giải và kết quả bài toán là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán. Việc làm đó giúp các em biết được kết quả bài làm cũng như cách giải bài toán của mình đã đúng chưa, có phù hợp không. Việc kiểm tra, đánh giá cách giải bài toán phải trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ Tiểu học. Ở lớp 3, cần tập cho học sinh biết nhìn lại toàn bộ bài giải, nhìn lại phương pháp và các thủ thuật đã sử dụng (yêu cầu cao hơn ở lớp 1,2) để vừa kiểm tra bài giải vừa nắm vững thêm cách giải. Chú ý từng bước cho học sinh thói quen soát lại và suy nghĩ về tính hợp lí của cách giải đã chọn, tìm ra những chỗ dài dòng, chưa hợp lí để tìm cách cải tiến, đặc biệt gây cho học sinh có thói quen tự hỏi: "Có thể giải bằng cách khác không ?" Tìm được cách giải khác một mặt tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Trường Tiểu học Suối Hoa