Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm cho học sinh Lớp 3
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm cho học sinh Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_ren_ky_nang_doc_dung_doc_hie.docx
Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm cho học sinh Lớp 3
- PHẦN I. MỞ ĐẦU: 1. Mục đích của sáng kiến: Theo chương trình Giáo dục phổ thông 2018 thì Tiết đọc là một phân môn có vị trí hết sức quan trọng trong môn Tiếng Việt nhất là trong giai đoạn bùng nổ thông tin hiện nay. Đọc thông viết thạo là một yêu cầu đặt ra với bất cứ học sinh tiểu học nào, ngay từ những ngày đầu tiên đến trường các em đã phải học đọc mặc dù ở giai đoạn này việc đọc của các em mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận diện kí hiệu chữ viết và giải mã bằng âm thanh song đây là một giai đoạn rất quan trọng bởi đó là giai đoạn học sinh phải học để đọc và làm nền tảng cho những giai đoạn tiếp theo, giai đoạn đọc để học. Càng về sau yêu cầu đặt ra trong việc đọc càng được nâng cao, từ việc đọc để hiểu được nội dung văn bản đến việc phát triển kĩ năng đọc diễn cảm. Dạy học đọc ở Tiểu học là một việc làm hết sức có ý nghĩa trong việc hình thành và phát triển kĩ năng đọc cho học sinh, nó khẳng định sự cần thiết cho việc hình thành và phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh.Thông qua phân môn Đọc mà trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn học văn và phát triển tư duy, mở rộng vốn hiểu biết của học sinh về cuộc sống. Bồi dưỡng tư tưởng tình cảm trong sáng, yêu cái đẹp, cái thiện, có thái độ ứng xử tốt trong cuộc sống, yêu Tiếng Việt. Bên cạnh đó theo quan điểm tích hợp các bài đọc còn có nhiệm vụ cung cấp ngữ liệu để hình thành và phát triển các kỹ năng khác được quy định trong chương trình. Các bài đọc đã trở thành nguyên liệu để các phân môn khác như: luyện tập mở rộng vốn từ, luyện từ và câu, viết văn. Chính vì vậy việc dạy phân môn Đọc chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Nó làm nòng cốt xuyên suốt toàn bộ chương trình Tiểu học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng. Thực hiện dạy Đọc theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 đòi hỏi giáo viên phải từ bỏ một số thói quen không thích hợp như: Tham giảng bài, ngại sử dụng phương tiện dạy học, nói dài dòng, dàn trải. Trong thực tế giảng dạy việc tổ chức cho học sinh đọc từ, đọc câu, đọc đoạn là rất phù hợp với lớp 2, 3. Tuy nhiên do giáo viên thiếu linh hoạt trong quá trình giảng dạy, kỹ năng đọc của học sinh còn chậm. Việc luyện đọc từ khó – giảng từ của giáo viên còn nhiều bất cập, nên giờ học đã kết thúc mà có khi học sinh chưa được tìm hiểu cái hay, cái đẹp, cái dí dỏm trong nội dung bài đọc hoặc giáo viên tham nói, tham giảng từ dài dòng mà học sinh không được luyện đọc bài. Được trực tiếp giảng dạy và qua dự giờ đồng nghiệp tôi nhận thấy tình trạng này diễn ra không phải là ít. Người giáo viên cần làm gì? Làm như thế nào? để tiết học nhẹ nhàng, đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy đọc là điều tôi còn băn khoăn, trăn trở. Thông qua giảng dạy tôi đã tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp và một phần những việc làm mà bản thân đã khám phá ra trong giảng dạy với một mong muốn tìm ra các biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 3 để nâng cao hiệu quả giờ đọc. Đây chính là lí do khiến tôi chọn đề tài “Biện pháp rèn kỹ năng đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3” để nghiên cứu trong năm học này.
- 2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến: * Với biện pháp mà tôi đã áp dụng đã có những điểm mới và ưu việt so với những biện pháp trước đây tôi đã áp dụng như sau: - Thứ nhất là các biện pháp tập chung vào rèn cho học sinh kỹ năng đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm. - Thứ hai là biện pháp này sẽ giúp khơi gợi được niềm đam mê đọc đúng, đọc hiểu và cao hơn là đọc diễn cảm trong các em để từ đó các em thấy rằng việc đọc không hề khô khan, nhàm chán. Các em thấy thích thú, tích cực trong việc luyện đọc.Từ đó rèn cho các em được sự tự tin, mạnh dạn thể hiện giọng đọc của mình. * Sáng kiến được áp dụng lần đầu vào thực tiễn tại đơn vị Trường Tiểu học Minh Tân từ năm học 2022 – 2023. Ưu điểm nổi bật của sáng kiến là rèn cho học sinh kỹ năng đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm Khơi gợi sự tự tin trong mỗi học sinh để các em biết rằng: “ Khi các em tự tin thể hiện giọng đọc của mình thì các em sẽ trở nên mạnh dạn, tự tin hơn”. 3. Đóng góp của sáng kiến để nâng cao chất lượng dạy và học của Trường Tiểu học Minh Tân ở những mặt sau: - Chất lượng đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm đã tăng lên cả về chất lượng và số lượng. Học sinh tham gia vào các cuộc thi Giới thiệu sách trực tuyến, Đại sứ văn hóa đọc đạt kết quả cao. - Và quan trọng hơn là khi các em đọc được đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm thì các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn và cảm thấy yêu Tiếng Việt hơn. PHẦN II. NỘI DUNG: CHƯƠNG I. Khái quát thực trạng đọc của học sinh Trường Tiểu học Minh Tân: Khi bắt đầu nhận lớp bản thân tôi thấy tình trang đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm vẫn còn một số vấn đề như sau: Thuận lợi: Ban Giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến học sinh các lớp. Các em được học ở một ngôi trường khang trang sạch sẽ, ngồi học bàn ghế chuẩn đối với lứa tuổi của các em. Được sự quan tâm của phụ huynh học sinh, các em có đủ sách vở, đồ dùng học tập theo yêu cầu của giáo viên. Khó khăn:
- * Về phía giáo viên Với học sinh lớp 3 (lớn hơn các khối 1, 2) nên trong giờ đọc, một số giáo viên còn thờ ơ trong việc rèn đọc cho học sinh, chưa đi sâu sửa lỗi để học sinh luyện đọc đúng trong cách phát âm, ngữ điệu khi đọc văn bản. Nguyên nhân là do giáo viên thường nghĩ việc rèn đọc cho học sinh nên giành nhiều thời gian ở lớp 1,2. Do vậy, một số giáo viên chưa quan tâm đến việc sửa lỗi triệt để cho học sinh, chưa đưa ra các hình thức luyện đọc hấp dẫn thu hút học sinh trong giờ Tiếng Việt phân môn đọc. * Về phía học sinh Mặc dù đã bước sang giai đoạn hai của lứa tuổi Tiểu học tuy nhiên học sinh lớp 3 lại là lớp đầu của giai đoạn này nên việc cảm thụ văn học của các em vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Các hoạt động trong giờ Tiếng Việt phân môn đọc được lặp đi lặp lại theo một quy trình làm cho giờ dạy trở nên đơn điệu, nhàm chán đối với học sinh. Bên cạnh đó vốn sống và vốn kiến thức văn học của học sinh còn hạn chế. Phần lớn các em chưa có thói quen đọc sách đặc biệt là các tác phẩm văn học. Vì vậy các em cũng ít có sự say mê với các tác phẩm văn học. Ngoài ra, nội dung chương trình lớp 3 rất đa dạng, có nhiều loại văn bản học sinh ít khi hoặc chưa tiếp xúc bao giờ như kịch nên phần đọc diễn cảm của các em gặp rất nhiều khó khăn. Đa số các em mới chỉ dừng lại ở việc đọc to nhưng mức độ đọc lưu loát còn một số em vẫn chưa đạt yêu cầu, các em còn đọc lát gừng, đọc lặp từ, thêm từ, bớt từ Mức độ đọc diễn cảm chỉ có rất ít em đạt được. Các em chưa thể hiện rõ giọng đọc của từng thể loại như thơ, văn Đặc biệt vẫn còn một số học sinh không biết thế nào là đọc hay, đọc chưa có cao độ không diễn cảm dẫn đến không thể hiện hết được ý tưởng và những nội dung tác giả muốn truyền đạt đến người nghe. CHƯƠNG II. Biện pháp rèn kỹ năng đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 Biện pháp thứ nhất: Khảo sát phân loại học sinh qua từng giai đoạn: Để nắm được khả năng đọc của học sinh, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành tìm hiểu, phân loại học sinh. Tôi tiến hành kiểm tra các em về đọc và kiến thức trong bài. Kết quả điều tra kỹ năng đọc của học sinh lớp 3B do tôi phụ trách trong đợt Kiểm tra chất lượng đầu năm để nắm tình hình học sinh của tôi như sau: Tổng số Đọc đánh Năm học 2022-2023 Đọc diễn cảm Đạt chuẩn Còn chậm học vần sinh SL TL SL TL SL TL SL TL Đầu năm học 24 1 4,1% 11 45,8% 9 37,5% 3 12,6%
- Bên cạnh đó tôi gặp gỡ với giáo viên cũ để trao đổi, từ đó có thêm hiểu biết về khả năng học phân môn Đọc của các em. Từ những hiểu biết trên, tôi lập thành các nhóm học tập. Mỗi nhóm có em học tốt và em kém để các em giúp đỡ lẫn nhau trong việc học tập và cũng để dễ dàng kiểm tra, hướng dẫn các em. Biện pháp thứ hai: Chuẩn bị chu đáo cho giờ học. 1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước cho bài học: Để giúp các em học tốt một bài Đọc, tôi thường hướng dẫn các em chuẩn bị một cách chu đáo, cụ thể như sau: Trước tiên các em cần đọc thành tiếng ít nhất 5 lần sau đó đọc thầm. Tìm xem bài Đọc có mấy đoạn, mấy câu (mấy khổ thơ). Đọc kĩ phần từ ngữ ở cuối bài. Tập trả lời miệng các câu hỏi về tìm hiểu nội dung trong sách giáo khoa, từ đó các em có thể nêu được nội dung bài Đọc. Tìm hiểu bài Đọc thuộc thể loại gì (thơ hay văn xuôi). Để giúp học sinh đọc tốt, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi trao đổi với phụ huynh, thống nhất phương pháp hướng dẫn học sinh học Đọc tại nhà. Từ đó phụ huynh học sinh có thể giúp đỡ các em chuẩn bị tốt bài Đọc của giờ học sau. Chính vì có sự chuẩn bị chu đáo như vậy nên trong những giờ Đọc sẽ giúp các em đọc lưu loát, biết cách ngắt nghỉ đúng ở các dấu câu, dấu phẩy trong câu văn. Ví dụ: Khi dạy bài Cánh rừng trong nắng Sách Tiếng Việt 3 tập 1 Sách Kết nối tri thức với cuộc sống tôi đã hướng dẫn học sinh chuẩn bị như sau: Đọc thành tiếng 5 lần, dùng bút chì ghi số câu trong bài đọc. Đọc kĩ phần từ ngữ: Trùng điệp - > điều này sẽ giúp các em hiểu rõ hơn nội dung bài đọc. Học sinh tập trả lời miệng các câu hỏi để tìm hiểu nội dung bài: -Khi đi trong rừng, các bạn nhỏ nghe thấy những âm thanh gì? -Cây cối và con vật trong rừng được tả như thế nào? -Trên đường về, ông đã kể những gì cho các bạn nhỏ? -Theo em, các bạn nhỏ có thấy thú vị với chuyến đi thăm rừng cùng ông không? Vì sao?
- Phần tìm hiểu này giúp học sinh nhớ được nội dung bài. Với sự chuẩn bị bài kỹ của học sinh như vậy nên ở trên lớp dưới sự dẫn dắt, hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ đọc lưu loát, tiến tới đọc hay, các em chủ động trong việc nắm bắt nội dung bài đọc, phát huy được tính cực, chủ động của học sinh trong giờ học. 2. Chuẩn bị của giáo viên: Qua thực tế giảng dạy, dưới sự giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, tôi nhận thấy rằng để dạy thành công một tiết Đọc, truyền thụ được kiến thức một cách khoa học, sâu sắc giáo viên cần chuẩn bị kỹ những việc sau: + Soạn bài cụ thể, chi tiết thể hiện rõ hoạt động của thầy, của trò. Xây dựng được các phương pháp dạy học truyền thống kết hợp với các phương pháp, phương tiện dạy học hiện đại một cách linh hoạt để giờ dạy nhẹ nhàng, đạt hiệu quả. + Nắm chắc yêu cầu rèn đọc ở từng bài. Đọc kĩ bài đọc sắp dạy, trao đổi học tập cách dạy của đồng nghiệp, dự kiến các tình huống học sinh sẽ mắc phải và cách sửa các tình huống đó. + Tìm hiểu kĩ nội dung bài để hiểu được các biện pháp nghệ thuật tác giả đã dùng, từ đó xác định cách đọc đối với từng đoạn, từng bài để thể hiện đúng tình cảm của từng bài. + Nắm vững hệ thống câu hỏi trong bài Đọc, đưa ra thêm những câu hỏi dẫn dắt để giúp học sinh phân tích, khai thác nội dung. Biện pháp thứ ba: Giáo viên cần đọc mẫu diễn cảm: Việc đọc mẫu của giáo viên là vô cùng quan trọng. Người ta thường bảo thầy nào thì trò ấy, không có một phương tiện trực quan nào có thể hiệu quả hơn và sinh động hơn đó chính là giọng đọc mẫu của giáo viên. Vì muốn học sinh đọc đúng, đọc hay giáo viên phải giới thiệu mẫu đúng. Lời đọc mẫu của giáo viên nhằm định hướng cho học sinh đọc đồng thời giúp học sinh nhận thức đúng nội dung bài học. Nếu là văn bản nghệ thuật còn có tác dụng khơi gợi hứng thú và sự tưởng tượng của học sinh – giúp các em dễ đi vào thế giới của tác giả, tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. Với văn bản nghệ thuật đọc mẫu của giáo viên là đọc diễn cảm. Còn văn bản thông thường đọc mẫu là đọc đúng. Giáo viên đọc mẫu tốt, chuẩn mực thì không có gì đáng ngại nếu như học sinh bắt chước thầy cô. Đọc mẫu của giáo viên bao gồm: - Đọc toàn bài: Thường nhằm giới thiệu, gây xúc cảm, tạo hứng thú và tâm thế học đọc cho học sinh.
- - Đọc câu, đoạn: Nhằm hướng dẫn, gợi ý hoặc “tạo tình huống” để học sinh nhận xét, giải thích nội dung bài đọc. - Đọc từ, cụm từ: nhằm sửa phát âm sai và rèn cách đọc đúng cho học sinh Vấn đề đặt ra trước tiên, để đọc mẫu tốt, giáo viên cần tìm hiểu và cảm thụ bài văn, tìm hiểu bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh sáng tác, vị trí của tác phẩm, tác giả tiếp đến là việc tìm hiểu nội dung, hình thức bài đọc: thể loại, bố cục, kết cấu, nghệ thuật. Ví dụ: * Bài “Lần đầu ra biển” sách Tiếng Việt lớp 3 tập 1 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống. Gv cần đọc mẫu với giọng diễn cảm, nhấn giọng ở những từ ngữ giàu sức gợi tả, gợi cảm, câu thể hiện cảm xúc ngạc nhiên, thích thú của Thắng khi lần đầu thấy biển. “ A! Biển!Biển đây rồi. Thích quá!”; “ Ôi! Biển rộng quá, xanh quá, chẳng nhìn thấy bờ bên kia đâu.” Ví dụ: Hay trong bài “ Con đường đến trường” Sách Tiếng Việt lớp 3 tập 1 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống. Giáo viên cần đọc mẫu với giọng đọc nhẹ nhàng và chứa nhiều cảm xúc như đang tâm tình, kể chuyện và chú ý ở đoạn thứ 2 thì đọc với giọng vui vẻ hơn. Khi đọc mẫu, giáo viên cần giữ được tính tự nhiên của giọng đọc, tránh lên bổng xuống trầm một cách giả tạo, máy móc Tuỳ đối tượng học sinh, giáo viên xác định các lỗi phát âm mà HS dễ mắc phải để định ra các tiếng, từ, cụm từ, câu khó để luyện đọc trước. Nói tóm lại, việc giáo viên đọc mẫu là rất cần thiết vì muốn học sinh đọc đúng phải giới thiệu cho các em mẫu đúng. Lời đọc mẫu đúng và hay của giáo viên có tác dụng định hướng cách đọc cho học sinh, đồng thời giúp các em nhận thức đúng hơn nội dung bài đọc. Nếu bài đọc là một văn bản nghệ thuật thì lời đọc của giáo viên còn có ý nghĩa khơi gợi hứng thú và tưởng tượng của học sinh, làm cho các em dễ đi vào thế giới của tác phẩm và thấy tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. Giáo viên cần hướng dẫn để học sinh đọc sao cho phù hợp với nội dung chính của bài văn, bài thơ. Ví dụ: biết nghỉ ngơi đúng sau các dấu câu, giữa các cụm từ đầu hay giữa các mục, các phần trong bài đọc, không đọc với nhịp nhanh, sôi nổi một bài cần đọc với giọng chậm rãi; không đọc với giọng vui vẻ một bài cần đọc với giọng trầm, buồn Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích, mẫu hình kĩ năng đọc mà học sinh cần đạt được. Do đó yêu cầu đọc thành tiếng của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn: đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm. Giáo viên phải ổn định trật tự, tạo cho học sinh tâm thế ngồi đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc, giáo viên đứng ở vị trí bao quát được cả lớp, không nên đi lại trong khi đọc, cầm sách mở rộng, đọc đủ lớn để em học sinh xa nhất cũng nghe rõ và thỉnh thoảng mắt phải rời sách nhìn lên học sinh nhưng không làm cho bài đọc bị gián đoạn. Biện pháp thứ tư: Cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ ngữ: a) Cho học sinh đọc từ ngữ lúc nào cho hợp lý? Nhiều ý kiến cho rằng, việc cho học sinh đọc từ ngữ trong sách giáo khoa là không cần thiết. Giáo viên chỉ cần nêu câu hỏi nếu học sinh giải thích được nghĩa của từ là xem như học sinh đã được đọc từ ngữ? Vậy nếu như những bài đọc như: “Con đường đến trường” Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 tập 1 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống có 4 từ cần
- giải nghĩa mà giáo viên cứ đặt câu hỏi lôi 4 từ ra để học sinh trả lời thì thời gian đâu để tổ chức hoạt động khác? Đọc để ghi nhớ từ mới là tăng vốn từ cho học sinh. Đọc để nắm được cách giải nghĩa từ khi cần. Song nên tổ chức cho học sinh đọc phần từ ngữ lúc nào cho hợp lý? Theo tôi phần từ ngữ cần tổ chức cho học sinh đọc thầm, trong khi học sinh đọc thầm nối tiếp nhau từng đoạn trong nhóm là hợp lý nhất. Sau đó học sinh lại đọc thành tiếng theo nhóm trước lớp. Có thể học sinh đọc từ ngữ mà vẫn chưa hiểu nghĩa của từ giáo viên vận dụng cơ hội này để giảng từ, nhằm mở rộng vốn từ cho học sinh. Đến bước tìm hiểu bài giáo viên vẫn còn thời cơ để kiểm tra, cũng cố nghĩa của từ (nếu cần), bằng cách đặt câu hỏi, tìm hiểu nội dung thông qua đó rút từ chìa khoá để giảng cho học sinh. Cách kiểm tra có thể yêu cầu học sinh nhắc lại nghĩa của từ, tìm từ gần nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa hoặc đặt câu với từ cần giải nghĩa. Chính ở bước này, những từ khó có thể ở địa phương các em chưa hiểu, hoặc từ chìa khoá giáo viên có thể kết hợp giảng để học sinh hiểu nội dung. b) Xác định từ ngữ cần giảng trong bài như thế nào cho hợp lý: Đây là điều mà chúng tôi đưa ra bàn cãi rất nhiều. Nếu như giáo viên không biết xác định từ ngữ cần giảng thì tiết học sẽ dàn trải, thiếu trọng tâm, chiếm nhiều thời gian mà nhiệm vụ của tiết học vẫn không hoàn thành. Theo tôi các từ ngữ cần giảng trong bài tập đọc là: + Từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa. + Từ ngữ phổ thông mà học sinh chưa quen. + Từ ngữ đóng vai trò quan trọng là “chìa khoá” để mở nội dung bài học. Trong một bài tập đọc cần xác định từ cần giảng và cách xác định từ là điều mà nhiều giáo viên còn lúng túng. Giảng ít từ khi thấy còn thiếu, giảng nhiều từ dẫn đến tham nói mất thời gian. Việc rút từ để tìm hiểu nội dung bài tập đọc là việc khó nhất trong giờ tập đọc. Theo tôi có 2 căn cứ giúp giáo viên rút từ chính xác, trọng tâm đó là: + Căn cứ vào nội dung cần truyền thụ chính là mục tiêu bài dạy. + Căn cứ tên bài (tiêu đề bài tập đọc). Giáo viên cần lưu ý việc giảng từ khó và rút từ chìa khoá hoàn toàn khác nhau. Từ khó hiểu chỉ yêu cầu học sinh đọc chú giải để hiểu nghĩa của từ. Còn từ chìa khoá là từ yêu cầu học sinh hiểu để nắm nội dung bài. Khi từ khó trùng với từ chìa khoá giáo viên ghi ở phần “tìm hiểu bài” (phần ghi bảng). Có 6 cách giải nghĩa từ: + Đặt câu với từ cần giải nghĩa. + Tìm từ đồng nghĩa. + Từ trái nghĩa. + Miêu tả sự vật, đặc điểm được biểu thị ở từ cần giải nghĩa. + Tách từ để miêu tả. + Sử dụng đồ dùng dạy hoc (vật thật, tranh ảnh) Cách tìm hiểu từ chủ yếu là phải đặt trong ngữ cảnh. Cần giới hạn việc giải nghĩa từ trong phạm vi nghĩa cụ thể bài đọc giải nghĩa, đơn giản với học sinh lớp 3 – tránh dài dòng, giải nghĩa cồng kềnh quá tải làm mất thời gian luyện đọc của học sinh.
- Ví dụ: Trong bài đọc “ Những bậc đá chạm mây” Sách Tiếng Việt lớp 3 tập 1 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống.Với các từ cần giải nghĩa cho các em là từ Cố, Truông. Các từ trên là từ khó hiểu nghĩa đối với các em song không phải là từ chìa khoá. Giáo viên cần căn cứ vào nội dung. Câu chuyện nhằm giải thích cho học sinh. Việc rút từ chìa khoá của giáo viên không yêu cầu từ nào cũng phải giải nghĩa mà chủ yếu là để học sinh hiểu được nội dung bài từ đó giúp các em đọc, viết đúng; đọc hay. Biện pháp thứ năm: Rèn kỹ năng đọc ngắt, nghỉ giọng đúng chỗ cho học sinh: Có 2 kiểu ngắt giọng: Ngắt giọng logic và ngắt giọng biểu cảm. Ngắt giọng logic là những chỗ dùng để tách nhóm trong câu. Ngắt giọng logic phụ thuộc vào ý nghĩa và quan hệ giữa các từ trong câu. Ngắt giọng biểu cảm đối lập với ngắt giọng logic đó là những chỗ nghỉ lâu hơn bình thường hoặc chỗ nghỉ không do logic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm tạo ra ấn tượng về cảm xúc. a) Kỹ năng ngắt giọng logic: Khi đọc một văn bản nếu gặp dấu câu ta cần phải ngắt, nghỉ giáo viên cần hướng dẫn học sinh sau dấu chấm, dấu hai chấm, chấm cảm ta cần phải nghỉ. Song sau dấu chấm xuống dòng cần nghỉ lâu hơn sau dấu chấm. Sau dấu phẩy ta phải ngắt giọng, sau dấu phẩy có lúc cũng phải ngắt giọng khác nhau. Dấu phẩy ngăn cách giữa vế và câu ngắt lâu hơn, dấu phẩy sau trạng ngữ. Khi đọc một số bài văn xuôi có những câu dài, cấu trúc ngữ pháp phức tạp học sinh thường ngắt tuỳ tiện như sau: Ví dụ : Trong bài “ Đi tìm mặt trời” Sách Tiếng Việt lớp 3 tập 1 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống có câu văn dài: Gà trống bay đến cây chò cao nhất, nhìn lên thấy mây bồng bềnh và sao nhấp nháy. Thì các bạn thường ngắt nghỉ hơi như sau: Gà trống bay đến cây chò cao nhất,/ nhìn lên thấy mây bồng bềnh và sao nhấp nháy./ Nhưng ngắt nghỉ hơi đúng sẽ phải là: Gà trống bay đến cây chò cao nhất,/ nhìn lên/ thấy mây bồng bềnh và sao nhấp nháy. b) Ngắt giọng biểu cảm: Dạy cho học sinh biết cách ngắt giọng logic là yêu cầu quan trọng với học sinh lớp 3, ngoài ra giáo viên có thể dạy cho học sinh ngắt giọng biểu cảm ở một số bài thơ đây là phương tiện tác động người nghe. Ngắt giọng logic thiên về trí tuệ còn ngắt giọng biểu cảm thiên về cảm xúc. Ví dụ: Trong bài Con đường của bé sách Tiếng Việt lớp 3 tập 1 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách đọc ngắt giọng biểu cảm đọc đúng nhịp thơ thể hiện sự hào hứng, say mê, tha thiết. Tóm lại: Đọc đúng chỗ ngắt giọng và ngắt giọng hay là yêu cầu, mục đích của việc dạy tập đọc là phương tiện để phát triển ngôn ngữ cho học sinh.
- Thực tế giáo viên chúng ta chưa am hiểu sâu sắc về lý luận văn học tuy nhiên nếu giáo viên đầu tư, chuẩn bị bài kỹ lưỡng, đọc bài nhiều lần để tìm cách đọc đúng, chuẩn xác, cách đọc hay nhất để có mẫu tốt cho học sinh học tập. Muốn vậy theo tôi giáo viên cần: + Nắm vững nội dung bài, tính cách nhân vật, giọng điệu của câu chuỵên, bài tập đọc, bài thơ. + Nắm được cốt truyện – nội dung các đoạn truyện. + Nắm thể loại thơ để chọn cách đọc, giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng, ngọt ngào hay chua ngoa. + Nắm được cấu trúc ngữ pháp của câu thơ, câu văn. CHƯƠNG III.Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai của sáng kiến: Sau một thời gian trực tiếp giảng dạy, với tất cả sự tâm huyết của mình bản thân tôi đã tìm tòi, tự học, tự đúc rút kinh nghiệm dần dần khắc phục các tồn tại của bản thân nên đã thu được một số kết quả như sau: 1. Về giáo viên Tôi đã sử dụng thành thạo, linh hoạt quy trình lên lớp một tiết đọc biết kết hợp nhuần nhuyễn việc đọc câu với luyện đọc từ khó, tiếng khó chữa lỗi cho học sinh triệt để. Việc giải nghĩa từ khó và rút từ chìa khoá trong giảng dạy đã thành thạo, biết kết hợp để ghi bảng cho hợp lý. Triệt để khai thác các câu hỏi trong sách giáo khoa, chỉ đặt câu hỏi phụ khi cần thiết để dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi chính. Lối tham giảng, nói nhiều đã được gạt bỏ dần. Bản thân đã mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm vậy mà tiết dạy ngày càng đạt hiệu quả cao. 2. Về học sinh: a) Kỹ năng đọc: Học sinh phát âm đúng không còn em nào nhầm l/n, biết ngắt nghỉ sau các dấu câu, giữa các cụm từ dài, giữa các mục, các phần trong bài học. 92,7% học sinh đọc tốc độ trên 60 tiếng/phút. Biết đọc thầm để hiểu nội dung và trả lời câu hỏi do giáo viên nêu ra. b) Kỹ năng nghe: Sau khi nghe giáo viên đọc mẫu học sinh bắt chước, có nhiều em đọc giống giọng đọc của giáo viên. Thậm chí có 2 đến 3 học sinh còn đọc hay hơn. Biết nghe bạn đọc và nhận xét cách đọc của bạn. Không khí lớp học sôi nổi. Mỗi lần giáo viên đặt câu hỏi tìm hiểu bài thường có 60-70% số học sinh giơ tay phát biểu. c) Kỹ năng nói: 70% học sinh nói dõng dạc, nói có đầu có cuối khi được giáo viên hỏi. Lời nhận xét rõ ràng, các em đã có thói quen một số thao tác cơ bản như: Phân tích, phán đoán, so sánh, lựa chọn Điều đáng nói ở đây là các em hứng thú học tập và tự giác tham gia vào các hoạt động học tập. 3.Kết quả đạt được: Kết quả khảo sát vào Cuối học kỳ II của lớp như sau:
- Năm học Tổng số Đọc diễn cảm Đạt chuẩn Còn chậm Đọc đánh vần 2022-2023 SL TL SL TL SL TL SL TL Cuối HKI 24 3 12,5% 15 62,5% 5 20,8% 1 4,2% SL TL SL TL SL TL SL TL Cuối HKII 24 6 25% 15 62,5% 3 12,5 0 0% Học sinh lớp của tôi đã tham gia cuộc thi Giới thiệu sách trực tuyến với chủ đề Cuốn sách em yêu đã đạt được Giải Nhất cấp huyện và giải Xuất sắc cấp tỉnh đó là một điều vô cùng tự hào với các em. Không chỉ dừng lại ở cuộc thi Giới thiệu sách trực tuyến mà học sinh của tôi lại tiếp tục tham gia cuộc thi Đại sứ văn hóa đọc và học sinh của tôi đã đạt giải Nhì. Bên cạnh đó trong ngày Hội đọc sách lớp 3B của tôi đã tham gia một tiết mục kể chuyện với câu chuyện Mười cô gái Ngã Ba Đồng Lộc. Với giọng đọc truyền cảm, xúc động, lôi cuốn và hấp dẫn người nghe, câu chuyện mà em Nguyễn Ngọc Diệp kể đã lấy đi rất nhiều nước mắt của khán giả.
- PHẦN 3. KẾT LUẬN: Phân môn Đọc chiếm vị trí hết sức quan trọng trong chương trình Tểu học. Đó là phân môn nòng cốt xuyên suốt toàn bộ chương trình nói chung và môn Tiếng việt nói riêng. Thực tế cho thấy rằng nếu như học sinh đọc diễn cảm, hiểu nội dung bài đọc, các em sẽ vận dụng và làm bài văn hay, diễn đạt gãy gọn khi nói, khi viết trong việc học các môn khác của chương trình. Để dạy tốt phân môn Đọc trong quá trình giảng dạy, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm như sau: Ngay từ đầu năm học giáo viên phải ổn định nề nếp, thói quen cầm sách – tập cho học sinh cách trả lời câu hỏi và điều tra, khảo sát chất lượng học tập của học sinh để có hướng giảng dạy phù hợp với từng đối tượng. Giáo viên cần bám sát chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, nhiệm vụ của phân môn Đọc đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, của lớp mình phụ trách để chọn những hình thức tổ chức và phương pháp dạy học thích hợp. Việc chuẩn bị bài của giáo viên chiếm vị trí quan trọng. Trong khi chuẩn bị bài giáo viên mới xác định nội dung, mục tiêu cần truyền thụ, có khả năng lựa chọn từ khóa của bài chính xác đồng thời nghiên cứu hệ thống câu hỏi sách giáo khoa. Dựa vào trình độ của học sinh lớp mình để chuẩn bị thêm các câu hỏi gợi mở và dự kiến các tình huống xảy ra. Mục tiêu chính của Đọc lớp 3 là rèn kỹ năng đọc. Giáo viên cố gắng tạo mọi điều kiện để các em được đọc. Việc tìm hiểu nội dung bài chủ yếu là dựa vào hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa. Giải nghĩa từ phải đặt trong văn cảnh - giáo viên không nên tham lam, dài dòng, mất thời gian. Trong tiết Đọc giáo viên cần phân loại đối tượng – có yêu cầu riêng với từng đối tượng học sinh. Với những học sinh đọc chưa đạt chuẩn về tốc độ giáo viên cần ưu tiên để các em được đọc nhiều. Giáo viên cần linh hoạt khi lên lớp. Lựa chọn thời điểm thích hợp để tổ chức cho học sinh được “chơi mà học” nhằm kích thích, khơi gợi sự hứng thú của các em. * Kiến nghị: Việc dạy cho học sinh kĩ năng đọc tốt không phải là việc làm một sớm một chiều. Song thông qua tất cả các môn học trong trường Tiểu học, giáo viên đều có thể rèn đọc cho học sinh ở mọi lúc mọi nơi. Phân môn Đọc có tác dụng và vai trò quan trọng đối với học sinh Tiểu học đặt nền móng để các em đi vào kho tàng tri thức bằng ngôn ngữ của mình. Qua việc nghiên cứu viết sáng kiến kinh nghiệm này, tôi mong muốn không chỉ riêng tôi mà mọi giáo
- viên Tiểu học đều hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng của phân môn Đọc trong bộ môn Tiếng Việt để trong quá trình giảng dạy, rèn tốt cho học sinh kĩ năng đọc và khả năng cảm thụ của học sinh. Tuy nhiên, với khả năng của bản thân còn hạn chế, bài viết cũng chỉ đáp ứng được phần nào của việc dạy Đọc mà thôi. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp giúp tôi đưa ra được những biện pháp rèn đọc cho học sinh có hiệu quả hơn nữa. Tôi cũng mạnh dạn nêu một số kiến nghị sau để việc giảng dạy phân môn Tập đọc đạt hiệu quả cao hơn. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đã đúc rút được. Rất mong được sự góp ý kiến của Ban giám khảo để bản thân tôi thực hiện có hiệu quả tốt hơn giờ Đọc trên lớp. Xin trân trọng cảm ơn! Người thực hiện Lương Thị Thơm